Năm 2003 được coi là một năm hồi phục trong thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), nhất là vào những tháng cuối năm. Theo thống kê, tổng nguồn vốn FDI vào Việt Nam năm ngoái là gần 3,2 tỷ USD, gồm cả vốn của những dự án mới và vốn bổ sung. Dự kiến năm nay, vốn FDI vào Việt Nam sẽ đạt khoảng 3,3 tỷ USD.
Theo Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Bích Ðạt, chiều hướng tăng vốn và đầu tư nước ngoài vào Việt Nam năm 2004 sẽ tiếp tục tạo đà vững chắc nếu như chúng ta tiếp tục cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư.
Trong tháng 2 này, một đoàn 20 doanh nghiệp lớn của Mỹ do Hội đồng kinh doanh Mỹ-ASEAN tổ chức sẽ sang Việt Nam, trong đó có nhiều doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực dầu khí, công nghệ cao, cơ khí chế tạo... để chuẩn bị cho Hội nghị Mỹ-ASEAN sẽ diễn ra vào tháng 7/2004 tại Việt Nam.
Xuất khẩu của khu vực doanh nghiệp đầu tư nước ngoài năm nay có chiều hướng gia tăng cao. Theo các chuyên gia của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, điều này là do trong năm 2003, doanh thu từ xuất khẩu của khu vực này đạt 6,25 tỉ USD, tăng 30,5% so với năm 2002. Một điều quan trọng nữa là nếu tính cả dầu khí, doanh thu xuất khẩu của khu vực đầu tư nước ngoài năm qua chiếm 51% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước.
Cùng với việc cải thiện các thủ tục hành chính tạo thuận lợi cho việc triển khai dự án, năm vừa qua đã có rất nhiều dự án mới được đi vào hoạt động, làm cho tổng dự án đang hoạt động của Việt Nam hiện nay lên đến gần 2.800 dự án. Nhờ vào các dự án này đã làm cho tiềm lực kinh tế của Việt Nam nói chung và tốc độ xuất khẩu nói riêng sẽ tăng rõ rệt trong năm mới này.
Các khu công nghiệp vẫn sẽ tiếp tục đóng một vai trò quan trọng trong thu hút đầu tư nước ngoài. Theo thống kê, trong năm qua, cả nước đã có thêm 16 khu công nghiệp mới với diện tích 3.000 ha, thu hút thêm khoảng 240 dự án đầu tư với khoảng 850 triệu USD vốn đầu tư, các dự án gia tăng vốn cũng tăng khoảng 660 triệu USD.
Như vậy, chỉ riêng số vốn của các khu công nghiệp được cấp phép mới và bổ sung vốn đã lên 1,5 tỉ USD. Nếu tính tỉ trọng thì khu công nghiệp đã cấp mới và bổ sung chiếm 48-49% tổng số vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
Dự kiến năm 2004, vốn FDI vào Việt Nam sẽ đạt khoảng 3,3 tỷ USD, tăng 8% so với năm 2003. Vốn FDI thực hiện trong năm 2004 sẽ đạt khoảng từ 2,75 đến 2,8 tỷ USD, tăng khoảng 3,7-3,8% so với năm 2003.
Ðể đạt được những mục tiêu đặt ra kể trên, theo Thứ trưởng Nguyễn Bích Ðạt, Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ tập trung giải quyết một số vấn đề then chốt.
Cụ thể, Bộ sẽ trình dự thảo về Luật đầu tư trong năm nay nhằm tiếp tục hoàn thiện hệ thống luật pháp chính sách và quy hoạch về đầu tư nước ngoài theo hướng tạo thuận lợi, bảo đảm tính minh bạch và dễ tiên đoán, phù hợp với yêu cầu hội nhập quốc tế; triển khai tốt 44 điều nêu ra trong sáng kiến Việt-Nhật.
Ðồng thời với những giải pháp trên, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng sẽ triển khai nhanh và có hiệu quả các nghị quyết mới của Chính phủ về chuyển đổi một số doanh nghiệp FDI sang hoạt động theo hình thức công ty cổ phần; công bố quy hoạch khu công nghiệp và trình Chính phủ ban hành nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định 36/CP; tham gia tích cực vào quá trình đẩy mạnh hội nhập liên quan đến đầu tư nước ngoài; triển khai 3 trung tâm xúc tiến đầu tư, đồng thời vận động tốt việc xúc tiến đầu tư nhưng hướng vào đối tác cụ thể.
Bên cạnh việc tăng cường vận động xúc tiến đầu tư tại các địa bàn trọng điểm, Bộ sẽ tiếp tục rà soát các dự án đã được cấp phép, kiên quyết rút giấy phép các dự án không có khả năng triển khai để làm lành mạnh hơn môi trường đầu tư; đẩy mạnh hơn nữa cải cách thủ tục hành chính; tăng cường công tác thông tin về đầu tư nước ngoài hơn nữa.
Ông Phan Hữu Thắng, Cục trưởng Cục đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết thêm, trong năm 2004, hoạt động xúc tiến đầu tư sẽ tiếp tục được thực hiện tại các địa bàn trọng điểm như Nhật Bản, Mỹ, EU, Ðài Loan... dưới nhiều hình thức khác nhau.
Song song, Cục đầu tư nước ngoài cũng sẽ phối hợp với các bộ, ngành đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường và đối tác đầu tư, tăng cường đề án xúc tiến với một số tập đoàn đa quốc gia lớn trong những lĩnh vực cụ thể.
Vietnam Economy - (28/01/2004)
|